![]() |
Thiếu cây cầu nối giữa nông dân và doanh nghiệp. |
Xác định mục tiêu này, trong những năm vừa qua, Chính phủ ban hành nhiều chính sách để hỗ trợ nhà nông. Một trong những chính sách đóng vai trò quyết định để hình thành chuỗi liên kết giá trị hàng hóa, giúp nhà nông có nơi bao tiêu sản phẩm, là quyết định 80 của Thủ tướng Chính phủ về Khuyến khích tiêu thụ nông sản thông qua hợp đồng. Tuy nhiên, 10 năm trôi qua, mối liên kết này vẫn khó đi vào cuộc sống, bởi nhiều lý do từ các nhà.
Qua tìm hiểu từ thực tế thì lý do đầu tiên mà chuỗi liên kết giá trị hàng hóa giúp nhà nông có nơi bao tiêu sản phẩm chưa thật sự đi vào cuộc sống, là do tập quán sản xuất nhỏ lẻ của nông dân. Do hoàn cảnh khó khăn, bà con không có khả năng dự phòng, nên sản xuất xong, nông dân chỉ muốn bán ngay cho thương lái tại chỗ, hơn là phải ngồi đọc lại những điều khoản trong hợp đồng.
Đó là những nông hộ nhỏ, còn các HTX và các hộ nuôi thủy sản lớn đều có hợp đồng với doanh nghiệp. Nhưng cũng do năng lực hạn chế nên họ không được tham gia thương thảo hợp đồng. Hầu hết, các hợp đồng đều do doanh nghiệp soạn thảo đưa ra. Chính vì vậy, bất lợi phần lớn vẫn nghiêng về phía người nông dân. Tồn tại này đã khá nhiều năm, ai cũng đã biết.
Phân tích về vấn đề này, Tiến sĩ Võ Hùng Dũng - Giám đốc Phòng Thương mại và Công nghiệp Việt Nam Cần Thơ nhấn mạnh: "Nghị định 80 chỉ yêu cầu thông qua hợp đồng; không có chuẩn yêu cầu các bên cần tuân thủ. Do vậy, hợp đồng ai soạn thì người đó có quyền bảo vệ lợi ích của mình.
Người nông dân không có khả năng soạn thảo hợp đồng tốt. Trái lại, hợp đồng ký trước thời vụ sản xuất, khi đến thời vụ xảy ra bất lợi về phía nông dân thì nông dân muốn thực hiện hợp đồng, nhưng bên kia lại muốn từ bỏ hợp đồng. Niềm tin 2 bên không có. Liên quan đến bên thứ 3 là thể chế bảo hiểm. Không có bảo hiểm trong nông nghiệp thì hợp đồng khó mà vận hành được".
Còn về phía doanh nghiệp không thể ký hợp đồng với tất cả nông dân. Vì doanh nghiệp không có đủ lực để thực hiện các nghĩa vụ của mình với từng hộ nông dân. Vấn đề quan trọng là chúng ta chưa có doanh nghiệp thu mua chế biến nông sản hạt nhân, đa số doanh nghiệp Việt Nam đều nhỏ, không có vốn lấy đâu ra mà ứng trước cho nông dân.
Nhấn mạnh đến vấn đề này, TS Nguyễn Bảo Trung- Trường Cán bộ quản lý NN &PTNT II cho biết: "Điểm yếu nhất của Việt Nam hiện nay dẫn đến sản xuất theo hợp đồng khó là doanh nghiệp VN quá yếu. Thế nên, chưa hình thành doanh nghiệp đủ sức giữ vai trò hạt nhân trong sản xuất. Vai trò doanh nghiệp rất quan trọng; sản xuất người nông dân cần phải có 3 thứ: vốn, công nghệ và thị trường. Bản thân người nông dân không làm được, doanh nghiệp phải làm. Một khi doanh nghiệp không làm được thì không thể sản xuất theo hợp đồng".
Bên cạnh đó, do nhà nước thiếu nhóm chính sách đồng bộ khiến cho hợp đồng không vận hành được. Cụ thể, khi hợp đồng đã được ký, không ai đứng ra giám sát việc thực thi hợp đồng. Thiếu chế tài xử lý, hợp đồng thiếu tính pháp lý. Ngoài ra, còn có những yếu tố ngoại lai nhưng rất quan trọng khiến cho các hợp đồng tiêu thụ nông sản đã ký nhưng không đi vào cuộc sống.
Phân tích những về vấn đề này, TS Chu Tiến Quang - Giám đốc Trung tâm tư vấn quản lý và đào tạo của Viện nghiên cứu quản lý kinh tế Trung ương nói: "Có các tác nhân khác là tác nhân thu mua, vận chuyển. Vì doanh nghiệp không đủ sức làm thì phải thuê. Nhưng các tác nhân này thu mua không tuân thủ theo ý muốn của doanh nghiệp thì hợp đồng giữa nông dân và doanh nghiệp cũng không thực hiện được. Thêm nữa là điều kiện sản xuất khác như dịch vụ thủy lợi, chống sâu bệnh, đường sá... tất cả những nhân tố tác động đến thực thi hợp đồng. Cho nên muốn phát triển hợp đồng các yếu tố phải đồng bộ với nhau".
Tóm lại, hợp đồng chỉ là công cụ để thúc đẩy các mối quan hệ giữa nông dân với doanh nghiệp chế biến chứ không phải là mục tiêu. Nhưng để hợp đồng tiêu thụ nông sản vận hành đi vào cuộc sống được thì cần có sự đồng bộ từ phía nhà nước trong vấn đề đứng ra làm trọng tài để giám sát, để phân xử, giải quyết thỏa đáng nếu có bên nào vi phạm hợp đồng.
Đồng thời, phải cho ra đời thật nhiều doanh nghiệp sản xuất thu mua chế biến hay còn là doanh nghiệp đầu tàu, doanh nghiệp hạt nhân. Muốn thu hút doanh nghiệp về nông thôn trước hết nhà nước phải quy hoạch được vùng sản xuất, kèm theo đó là quy hoạch hệ thống dịch vụ phục vụ cho sản xuất và hàng loạt các chính sách như khoa học công nghệ, vốn, bảo hiểm nông nghiệp, thuế... đi theo. Nghĩa là phải có sự liên kết trong hệ thống các chính sách ngay từ vùng nguyên liệu.
Điều quan trọng hơn hết là nhà nước phải giúp những doanh nghiệp đầu tàu này trong vấn đề xây dựng thương hiệu, tìm kiếm thị trường ở nước ngoài qua các tham tán thương mại của Việt Nam ở các nước. Bởi, chỉ có những doanh nghiệp có thị trường ổn định, có thương hiệu riêng của mình, họ mới sợ mất uy tín, mới cần nông sản có chất lượng thì việc gắn kết nông dân để hình thành vùng nguyên liệu mới thực sự diễn ra. Và từ thương hiệu họ mới bán được giá tốt hơn, tạo ra được giá trị gia tăng cao. Khi ấy, lợi nhuận giữa nông dân và doanh nghiệp mới được hài hòa.
Nếu không có thương hiệu, doanh nghiệp đó cũng chỉ bán dạng thô thì giá trị thấp, muốn có lời thì họ quay ngược lại chiếm đoạt lợi nhuận từ phía nhà nông. "Cái chính doanh nghiệp có tạo ra được giá trị gia tăng từ lợi nhuận trên thị trường. Muốn như thế người nắm đầu ra phải đầu tư công nghệ, nhà nước phải hỗ trợ họ. Chỉ có công nghệ, quản lý tốt mới cho ra sản phẩm tốt. Sản phẩm thô thì không bao giờ có giá trị. Nếu không làm tăng giá trị gia tăng thì trở thành chuỗi "supply chain" và chỉ quanh quẩn chiếm đoạt lợi nhuận của nhau. Cuối cùng kiện người này, người kia lật kèo", TS Lê Đức Thịnh - Trưởng bộ môn Thể chế của Viện chính sách và Chiến lược phát triển nông nghiệp nông thôn, nhấn mạnh.
Và có thể ta không nên dùng 1 kiểu hợp đồng như quyết định 80 mà có thể chuyển qua dạng hợp đồng đất đai. TS Chu Tiến Quang cho biết thêm: "Tức là người dân không hợp đồng về sản phẩm mà hợp đồng về đất đai như Luật đất đai đã cho phép người nông dân được quyền thuê lại hoặc được quyền góp vốn. Đất đai vẫn là của người nông dân nhưng được hợp đồng sản xuất cho nhà máy. Và sản phẩm là của nhà máy ngay tại đồng ruộng chứ không phải bán cho nhà máy theo giá nào đó. Hai bên không cần đàm phán về giá bán".
Đồng tình với ý kiến của TS Chu Tiến Quang, PGS - TS Dương Văn Chín - Trường Đại Học Cần Thơ nhấn mạnh: "Nước ta có các cánh đồng mẫu lớn, nhưng phải liên kết nhiều cánh đồng tạo thành trang trại kiểu mẫu vài ngàn hécta. Trong đó người nông dân hùn vốn của họ bằng quyền sử dụng đất đai. Còn doanh nghiệp kinh doanh lương thực đóng góp tiền bằng đầu tư cơ sở hạ tầng, kho bãi... nhưng công ty đó phải xây dựng thương hiệu của chính mình".
Thực tế ngành nông nghiệp ở các nước trên thế giới cho thấy, phải có các doanh nghiệp đầu tàu, hay trang trại kiểu mẫu mới tạo ra khối lượng hàng hóa lớn. Muốn vậy, không có cách nào khác là phải có sự liên kết trong chuỗi giá trị hàng hóa dưới sự cầm chịch của nhà nước thì mới phát triển được kinh tế nông nghiệp, nông thôn, nâng cao đời sống nông dân.
Và cho đến lúc nào đó, vai trò của chính quyền và nhà khoa học sẽ giảm, do trình độ dân trí ngày càng cao nên mối liên kết này chủ yếu là giữa nông dân với doanh nghiệp. Doanh nghiệp lo đầu vào và đầu ra nông sản, nông dân chỉ lo sản xuất.
Trong bối cảnh này, nhà nước không đóng vai trò nhạc trưởng thì sẽ rất khó điều hành nền sản xuất nông nghiệp. Cho dù, nông sản Việt Nam xuất khẩu số 1, số 2 thế giới thì nông dân vẫn nghèo, vẫn chạy như con thoi mới bán được sản phẩm. Doanh nghiệp cũng lao đao vì thiếu nguyên liệu. Khó lòng mà ta hoàn thành mục tiêu tăng thu nhập cho nông dân như Nghị quyết 26 của Ban chấp hàng Trung ương lần 7 về Tam Nông đã đề ra.
Kiều Oanh
No comments:
Post a Comment