‘Chúng tôi là nhân dân!’
Ngày hôm qua (8/10/2012) ở thành phố München của tiểu bang Bayern, nước Ðức, cô Thục Quyên nhìn thấy một “bầu trời xanh trong veo” trong ngày Quốc Khánh kỷ niệm nước Ðức thống nhất. Và cô nghĩ tới đồng bào, “Chúng ta, những người con của Mẹ Việt Nam chẳng bao giờ thôi ràng buộc với nhau bằng sợi dây thiêng liêng của tình nghĩa đồng bào, dù nghìn trùng xa cách, dù hoàn cảnh sống đang một vực một trời.”
Thục Quyên nhớ lại, “Hai mươi ba năm trước, ngày 9 tháng 10 năm 1989, tôi nhớ rõ cả nước Ðức nín thở hướng về thành phố Leipzig. Từ hai giờ trưa dân chúng đã từ từ đổ ra đường. Làn sóng 70,000 người cuồn cuộn di chuyển từ nhà thờ Nikolai về hướng Nhà Hát lớn ở trung tâm thành phố, hô to khẩu hiệu, ‘Wir sind das Volk, wir sind ein Volk’ (Chúng ta là nhân dân, chúng ta là một dân tộc!). Họ bất chấp tin tức đe dọa rằng chính phủ cộng sản Ðông Ðức sẽ thi hành ‘giải pháp Trung Hoa,’ nghĩa là giải pháp Thiên An Môn đẫm máu. Tại ga xe lửa Leipzig, 8000 lính và công an mang vũ khí đang sẵn sàng ra tay. Không khí căng thẳng lên cực điểm.”
“Chúng ta là nhân dân!” Chúng ta phải tự hỏi bao giờ tới lượt người dân Việt Nam cũng lên tiếng như vậy: “Chúng tôi là nhân dân!” “Chính chúng tôi đây là nhân dân!”
Ðồng bào Văn Giang. Ðồng bào Vụ Bản. Ðồng bào Bến Tre. Ðoàn Văn Vươn, Nguyễn Thanh Hải, Tạ Phong Tần. Họ đều là nhân dân cả! Những đảng viên cộng sản cao cấp đang họp ở hội trường Ba Ðình tự nhận họ lãnh đạo nhân dân. Họ đang cãi cọ, chửi bới nhau trong vòng bí mật, để tranh giành những miếng xôi miếng thịt. Khi ra ngoài, họ lại sẽ tuyên bố huênh hoang tự nhận làm đại diện cho quyền lợi của nhân dân. Họ đại diện cho những nhân dân nào? Hay chỉ là đại diện cho tham vọng của đế quốc đỏ phương Bắc?
Nói đến nhân dân, Volk, phải nhớ thi sĩ Bertolt Brecht viết đến “nhân dân” trong bài thơ bất hủ. Ngày 17 Tháng Sáu năm 1953, dân Ðông Berlin biểu tình trên đại lộ Unter den Linden, mà lúc đầu chỉ do các công nhân đòi cải thiện điều kiện làm việc. Họ bị 16 sư đoàn quân Liên Xô và tám ngàn “công an nhân dân” (Volkspolizei) của cộng sản Ðức tàn sát. Bài thơ “Giải Pháp” của Brecht chế nhạo: “Ông tổng thư ký Hội Nhà Văn – đã phát truyền đơn trên Ðường Stalin – Nói rằng nhân dân đã bị chính phủ bất tín nhiệm – Chỉ có thể lấy lại tín nhiệm nếu nay chịu làm việc gấp hai lần – Trong trường hợp đó tốt hơn – chính phủ hãy giải tán nhân dân – Và bầu lên một nhân dân mới?”
Tại Berlin nay có một con đường 17 Tháng Sáu. Sau năm 1953, người dân Ðông Ðức phải chịu sống trong chế độ cộng sản thêm 36 năm nữa. Nhưng cuối cùng, dân chúng Dresden, Leipzig đã xuống đường. May mắn cho dân tộc Nhật Nhĩ Man, đến một thời điểm lịch sử, chính những công an nhân dân được chế độ cộng sản ưu đãi cũng biết quay trở lại làm những con người. Những con người tự do dám quyết định theo lương tâm của mình.
Thục Quyên kể: “Trong giờ phút lịch sử đó, dân tộc Ðức đã chứng tỏ được độ cao của văn minh loài người: Trước thái độ cương quyết và không bạo động của người dân, lính và công an võ trang lùi dần và tuần tự rút đià Họ khôngá đánh đập, không bắt bớ, không đạp vào mặt, không bắn giết, không ủi nát dân bằng xe tăng, không vu khống, cầm tù. Ðối diện nhau, chỉá là những con người bằng xương bằng máu, là đồng bào ruột thịt với nhau, có lương tri, có tình cảm con người… Rồi 70,000 ngọn nến hòa bình được thắp lên tối hôm đó ở Leipzig, báo hiệu giờ khởi hành của cả một dân tộc trên con đường Tự Do-Bình Ðẳng-Dân Chủ. Ngày 9 Tháng Mười Một, 1989 bức tường Bá Linh sụp đổ.”
Thục Quyên suy nghĩ: “Ðứng trong dòng người vui tươi hớn hở từ khắp nước Ðức đến dự lễ tại thành phố München ngày hôm nay, tôi đã hiểu tại sao trong số các chính khách ngoại quốc đến thăm Việt Nam chỉ có một người như phó thủ tướng Ðức, BS Philipp Rösler, một người con của Mẹ Việt Nam, được chăm bón nuôi dưỡng bởi nền tự do hòa bình của dân tộc Ðức, mới có thể có cái nhìn và lời nói ngắn gọn chính xác gởi đến chúng ta:
“Không có tự do để mình được chọn cách suy nghĩ và hành động độc lập, thì sẽ không có kinh doanh; và sẽ không có được tự do kinh tế, nếu không có tự do xã hội.”
Ngày 20 Tháng Mười sắp tới đồng bào Việt Nam sống ở nước Ðức, nhiều người đã là công dân Ðức, sẽ tổ chức một cuộc biểu tình, đặt tên là “Một Ngày Cho Tổ Quốc Việt Nam” tại thành phố München. Họ sẽ nâng cao hàng trăm bản đồ Việt Nam, với những biểu ngữ khẳng định chủ quyền lãnh thổ và lãnh hải Việt Nam, vạch rõ thái độ hung hãn bành trướng của Trung Cộng trước con mắt của cả thế giới.
Chúng ta sẽ phải chọn một ngày trong năm tới, hẹn trước với nhau cùng tổ chức những cuộc biểu tình như vậy, vào mùa Xuân hoặc mùa Thu. Năm nay đồng bào ở Ðức đã bắt đầu, sang năm khắp nơi sẽ cùng tham dự. Người Việt Nam sẽ xuống đường cùng một ngày, buổi sáng ở Berlin, ở Paris, buổi chiều ở Sidney, Melbourne, hay ban đêm ở Washington, Los Angeles, Houston. Một cuộc biểu tình ban ngày, hay một đêm thắp nến, lần lượt vòng quanh trái đất, những người con nước Việt sẽ cho thấy mối đồng tâm nhất trí trước mối đe dọa tổ quốc bị chà đạp. Khắp nơi cùng hô lên một khẩu hiệu: “Hoàng Sa, Trường Sa thuộc nước Việt Nam!” Ðây là một dịp biểu dương tấm lòng yêu nước của người Việt Nam ở nước ngoài, gửi về cho đồng bào trong nước.
Ðồng bào chúng ta ở trong nước có được phép tổ chức một cuộc biểu tình tương tự để cùng nhau hô lớn tiếng “Hoàng Sa, Trường Sa thuộc nước Việt Nam hay không?
Trong lúc các tay chóp bu đảng Cộng Sản Việt Nam đang họp nhau chia phần xôi thịt, hầu như đồng bào trong nước chỉ đứng ngoài coi như coi một vở tuồng cũ. Sang hay Dũng, Trọng hay Sang, cuối cùng họ sẽ chia phần với nhau, dưới sự giám sát của các quan thầy Trung Cộng. Nguyễn Tấn Dũng đã phải bay sang Tàu gặp Tập Cận Bình. Trương Tấn Sang cũng phải bay qua gặp Hồ Cẩm Ðào. Còn Nguyễn Phú Trọng, thì không cần phải đi, bởi vì đã được Bắc Kinh tín nhiệm từ lâu rồi. Người dân Hà Nội vẫn nói “Lú như Trọng.” Bây giờ người ta lại thấm thía bảo nhau: “Nó lú nhưng chú nó khôn!” Chú nó đây là “Thúc thúc” Hồ Cẩm Ðào và Tập Cận Bình. Người Trung Hoa gốc Triều Châu khi nói chữ “Thúc,” nghĩa là chú, thì phát âm là “Chiệc” hay “Chệt.” Người Hà Nội đang có câu: “Trọng Lú nhưng Chú Chiệc khôn!
Muốn cho nước Việt Nam có một ngày được sống tự do dân chủ, những người Việt ở nước ngoài phải tiếp tay với đồng bào trong nước. Chúng tôi xin góp lời mời đồng bào Việt Nam ở nước Ðức và các nước Châu Âu cùng góp mặt với bà con tại Munchen, như Thục Quyên đang kêu gọi: “Mọi người sẽ đến tham dự cuộc biểu tình trong ‘Một Ngày Cho Tổ Quốc Việt Nam’ vì mỗi người tự biết mình đang thay mặt hàng trăm ngàn đồng bào nơi quê nhà, để nói lên cho thế giới biết ý chí và lòng cương quyết bảo vệ lãnh thổ của người dân Việt. Sẽ không có một lý do vị kỷ nào, một sự vô cảm nào có thể cản bước người dân Việt không lăn xả vào bảo vệ Tự Do, Ðộc Lập và Danh Dự giống nòi.”
Với những con dân nước Việt ở bên ngoài biểu dương nghĩa khí như vậy, sẽ đến ngày đồng bào chúng ta ở trong nước cũng đủ khí thế họp nhau lên tiếng: “Chúng tôi là nhân dân! Chúng tôi đòi quyền bỏ phiếu chọn người lãnh đạo đất nước. Chúng tôi không cho ai được mạo nhận danh nghĩa nhân dân nữa!”
Lời kêu gọi: Một ngày cho Tổ Quốc Việt Nam tại München/Munich

Mục đích:
- Phản đối chính quyền Trung Quốc liên tục xâm phạm trắng trợn chủ quyền lãnh thổ, lãnh hải và tài nguyên Việt Nam.
- Vạch trần chính sách bành trướng, đe dọa hòa bình của chính quyền Trung Quốc trước công luận quốc tế.
- Thể hiện quyết tâm bảo vệ quê hương Việt Nam của người Việt hải ngoại.
- Yêu cầu nhà cầm quyền Việt Nam cương quyết khẳng định chủ quyền đất nước và độc lập dân tộc, đồng thời tôn trọng và khuyến khích quyền biểu hiện công khai lòng yêu nước của mọi công dân Việt Nam.
Phương thức tổ chức:
- Biểu tình tại các quảng trường chính và tuần hành trong trung tâm thành phố München.
- Giải thích mục đích biểu tình và tạo sự ủng hộ từ công chúng.
- Bày tỏ thái độ ôn hòa, đoàn kết trong cộng đồng để thể hiện lòng yêu chuộng hòa bình và bản sắc dân tộc Việt Nam.
- Xem phim “Hoàng Sa Việt Nam: Nỗi đau mất mát”, giao lưu với tác giả phim André Menras đến từ Pháp vào buổi tối sau khi biểu tình.
Động lực:
MỘT NGÀY CHO TỔ QUỐC VIỆT NAM xuất phát từ lòng yêu nước của mỗi cá nhân trong nhóm khởi xướng và tuyệt đối độc lập, không do sự chỉ đạo của bất kỳ đoàn thể hay đảng phái nào. Những người khởi xướng hoàn toàn chịu trách nhiệm về pháp lý và phương thức tổ chức.
Nhóm khởi xướng buổi biểu tình (xếp theo thứ tự tên gọi):
Lê Văn Cát, Hồ Thành Công, Hồ Viết Đoan, Nguyễn Nam Hòa, Bùi Quang Lộc, Thục Quyên, Nguyễn Minh Trí, Nguyễn Anh Tuấn
- Xin vui lòng chuyển tiếp lời mời này đến tất cả thân hữu, đồng nghiệp, bạn bè người Việt cũng như người Đức và vận động mọi người cùng đông đảo tham gia
- Để cùng thể hiện lòng yêu nước, đứng trên mọi chính kiến, tuyệt đối không sử dụng bất kỳ lá cờ nào dưới mọi hình thức (cờ, mũ, áo, khăn quàng, cà-vạt, huy hiệu,…) mà chỉ dùng bản đồ Việt Nam làm biểu tượng tổ quốc trong suốt thời gian tham gia
- Chỉ sử dụng những biểu ngữ với nội dung phản đối hành vi xâm lược của chính quyền Trung Quốc, cũng như yêu cầu nhà cầm quyền Việt Nam phải tôn trọng và khuyến khích quyền biểu hiện công khai lòng quyết tâm bảo vệ đất nước của dân tộc Việt Nam
- Đề nghị quý cô bác anh chị, các cháu mặc trang phục truyền thống (áo dài, khăn đóng, nón lá,…) để thể hiện tinh thần và bản sắc Việt Nam
- Không hô khẩu hiệu và biểu lộ hành động hung hãn trong cuộc biểu tình tuần hành, hầu thể hiện sự ôn hòa, phù hợp với lòng yêu chuộng hòa bình của chúng ta
- Cùng giữ trật tự theo sự hướng dẫn của cảnh sát Đức và ban điều hành
NGÀY GIỜ, ĐỊA ĐIỂM:
- MỘT NGÀY CHO TỔ QUỐC VIỆT NAM tại München vào thứ bảy 20.10.2012
- Biểu tình khởi đầu lúc 13:00 giờ tại Geschwister-Scholl-Platz (U3/U6 trạm Universität) trước khi tuần hành
- Tuần hành trong trung tâm thành phố München đến Sendlinger Tor
- Biểu tình kết thúc lúc 16:00 giờ tại Sendlinger-Tor-Platz (U1/U2/U3/U6 trạm Sendlinger Tor) sau khi tuần hành
- Xem phim “Hoàng Sa Việt Nam: Nỗi đau mất mát”, giao lưu với tác giả phim André Menras lúc 19:30 giờ tại hội trường Kurt-Eisner-Straße 28 (U5 trạm Quiddestraße). Vào cửa tự do, có bán ẩm thực
Đã đến lúc dân ta (cả dân thường và cả những người đang thuộc bộ máy quản lý Nhà nước) phải chia tay với lối tư duy sai lầm là “trên” cho làm gì thì “dưới” mới được làm cái ấy, vì đấy là kiểu quan hệ giữa chủ nô và nô lệ, hoàn toàn trái với bản năng sống chủ động của mọi loài động vật tự do, trong đó có con người.
Quyền biểu tình của công dân
Biểu tình là một hoạt động hợp hiến và hết sức thông thường ở xã hội văn minh. Nhưng đến nay, biểu tình (ngoài sắp đặt của cơ quan Nhà nước) vẫn còn là một chuyện tương đối xa lạ ở Việt Nam, thậm chí như một điều “phạm húy”. Biểu tình bị ngăn cản, dù có diễn ra thì người ta vẫn quanh co, không dám gọi đúng tên. Đa số người dân nhìn nhận quyền biểu tình như một thứ xa xỉ phẩm, không liên quan đến cuộc sống của mình, thậm chí còn nhìn nó như một miếng mồi nhử nguy hiểm: Ừ thì Hiến pháp cho phép đấy, nhưng cứ thử động vào mà xem… Vốn dĩ thuộc phạm trù đối nội, quyền biểu tình được nêu trong Hiến pháp trên thực tế chỉ còn để đối ngoại.
Cản trở đối với quyền biểu tình của công dân không chỉ xuất phát từ ý muốn được “yên ổn” của những người cầm quyền, mà còn bị ảnh hưởng nhiều bởi sự nhầm lẫn về mặt lô-gíc: Cả hai phía đều coi việc chưa có Luật biểu tình chính là nguyên nhân khiến quyền biểu tình chưa được hay chưa thể thực thi.
Phía người dân tưởng là khi chưa có Luật biểu tình thì không được biểu tình, nên đa số những người muốn bày tỏ chính kiến… vẫn im lặng. Ngay cả những người đã can đảm xuống đường vẫn cảm thấy chưa yên tâm, lo là hành động của mình có gì đó không ổn về mặt pháp luật, nên mới đề nghị Quốc hội sớm ban hành Luật biểu tình.
Phía chính quyền thì coi các cuộc biểu tình không do họ hoặc các cơ quan Nhà nước tổ chức là bất hợp pháp, là cố tình gây rối, thậm chí là do các thế lực thù địch tổ chức hoặc kích động, nên nếu có biểu tình thì chính quyền có quyền giải tán, có quyền bắt bớ… Có lẽ cũng do tin rằng chưa có Luật biểu tình thì không được biểu tình, nên một số người muốn trì hoãn việc ban hành Luật biểu tình, vì nếu có luật thì dù quy định ngặt nghèo đến đâu đi nữa, vẫn còn lại những quyền tự do tối thiểu, và không phải ai cũng muốn chấp nhận những quyền tối thiểu ấy của người dân.
Câu hỏi đặt ra là: Nên hiểu quyền biểu tình và mối quan hệ của nó với Luật biểu tình như thế nào cho đúng?
Quyền biểu tình trong Hiến pháp hiện hành
Cơ sở pháp lý để đánh giá về tính hợp pháp của hoạt động biểu tình là Hiến pháp nước Cộng hòa xã hội chủ nghĩa Việt Nam năm 1992. Điều 69 của Hiến pháp hiện hành quy định:
“Công dân có quyền tự do ngôn luận, tự do báo chí; có quyền được thông tin; có quyền hội họp, lập hội, biểu tình theo quy định của pháp luật.”
Mệnh đề “theo quy định của pháp luật” khiến người dân lúng túng, do dự khi thực hiện quyền biểu tình, và bộ máy chính quyền dựa vào đó để phủ nhận quyền biểu tình của công dân trên thực tế. Thật ra, từ “pháp luật” xuất hiện 60 lần trong Hiến pháp 1992, nhiều khi chỉ là một phạm trù chung chung, không ám chỉ một luật cụ thể nào. Phải hiểu “theo quy định của pháp luật” hay “trong khuôn khổ pháp luật” là tuân theo những quy định thuộc về pháp luật – nếu đã có. Chưa có luật tương ứng thì có nghĩa là chưa có hạn chế, bởi không thể dùng cái chưa có để hạn chế thực tại. Sau khi Hiến pháp có hiệu lực, thì còn thiếu rất nhiều luật, và đến bây giờ vẫn còn thiếu, nhưng mọi tư duy lành mạnh đều hiểu rằng: Không thể bắt cuộc sống dừng lại, để đợi đến khi cơ quan lập pháp ban hành đủ luật.
Hiến pháp 1992 viết công dân có quyền biểu tình “theo quy định của pháp luật”, chứ không đòi hỏi cụ thể là “theo quy định của Luật biểu tình”. Giả sử, nếu Hiến pháp quy định là công dân chỉ có quyền biểu tình theo quy định của Luật biểu tình, thì công dân có quyền chất vấn và phê phán Quốc hội: Tại sao mấy chục năm rồi mà vẫn chưa ban hành Luật biểu tình? Lúc đó nhân dân nhắc nhở và đòi hỏi Quốc hội phải ban hành Luật biểu tình, chứ không phải chỉ đề nghị, kêu gọi, hay xin xỏ, vì:
“Nhân dân sử dụng quyền lực Nhà nước thông qua Quốc hội và Hội đồng nhân dân, là những cơ quan đại diện cho ý chí và nguyện vọng của nhân dân, do nhân dân bầu ra và chịu trách nhiệm trước nhân dân.”
(Điều 6, Hiến pháp 1992)
“Công dân có quyền tham gia quản lý Nhà nước và xã hội, …”
(Điều 53, Hiến pháp 1992)
Như vậy, khi không (hoặc chưa) có luật nào quy định cụ thể hơn về việc biểu tình, thì có nghĩa là pháp luật không (hoặc chưa) có hạn chế nào cả, và công dân hoàn toàn có quyền biểu tình, như Hiến pháp cho phép.
Quyền hạn và trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước đối với quyền biểu tình
Nếu Quốc hội muốn định hướng hay hạn chế hoạt động biểu tình của công dân trong một khuôn khổ nào đó, thì phải ban hành luật tương ứng. Nếu thấy cần kíp phải có luật để điều tiết hoạt động biểu tình, thì chính Quốc hội và các cơ quan giúp việc phải khẩn trương, chứ dân không phải sốt ruột xin Quốc hội ban hành. Cơ quan quản lý Nhà nước mới phải vội, chứ dân không cần vội. Việc một số công dân đề nghị Quốc hội sớm ban hành Luật biểu tình là một yêu cầu hoàn toàn chính đáng, nhưng điều đó lại góp phần làm cho người dân tiếp tục hiểu sai về quyền cơ bản của công dân, và làm cho những người thuộc cơ quan hành chính Nhà nước thêm ngộ nhận về quyền hạn của họ.
Nếu Chính phủ muốn quản lý hoạt động biểu tình của công dân theo một hướng nào đó thì Chính phủ phải soạn thảo và trình dự án luật (Điều 87, Hiến pháp 1992), để Quốc hội xem xét và ban hành luật, chứ Chính phủ không thể tự tiện đưa ra những quy định hay triển khai những hành động can thiệp trái với Hiến pháp. Hiến pháp 1992 đã quy định rõ:
“Quốc hội là cơ quan duy nhất có quyền lập hiến và lập pháp”
(Điều 83, Hiến pháp 1992)
và Chính phủ là “cơ quan chấp hành của Quốc hội” (Điều 109, Hiến pháp 1992). Điều 115 của Hiến pháp 1992 cho phép
“Chính phủ ra nghị quyết, nghị định, Thủ tướng Chính phủ ra quyết định, chỉ thị”
nhưng phải
“Căn cứ vào Hiến pháp, luật, nghị quyết của Quốc hội, pháp lệnh, nghị quyết của Uỷ ban thường vụ Quốc hội, lệnh, quyết định của Chủ tịch nước.”
Trong tất cả 11 khoản của Điều 112, quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của Chính chủ, và cả 6 khoản của Điều 114, quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của Thủ tướng Chính chủ, Hiến pháp 1992 không có bất cứ khoản nào cho phép Chính phủ hay Thủ tướng Chính phủ ban hành văn bản pháp quy để hạn chế hay can thiệp vào quyền tự do của công dân được Hiến pháp đảm bảo.
Trong Luật Tổ chức Chính phủ do Quốc hội khóa X thông qua ngày 25 tháng 12 năm 2001, Điều 8, quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của Chính phủ, được viết lại gần như nguyên văn Điều 112 của Hiến pháp 1992. Điều 20, quy định về nhiệm vụ và quyền hạn của Thủ tướng Chính phủ, là cụ thể hóa Điều 114 của Hiến pháp 1992. Quyền tự do của công dân được nhắc 3 lần trong Luật Tổ chức Chính phủ, trong đó chỉ khẳng định trách nhiệm của Chính phủ trong việc bảo vệ quyền của công dân và tạo điều kiện cho công dân sử dụng quyền của mình, cụ thể là:
“Thi hành những biện pháp bảo vệ quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tạo điều kiện cho công dân sử dụng quyền và làm tròn nghĩa vụ của mình…”
(Điều 8, Khoản 5)
“Quyết định những biện pháp bảo vệ các quyền và lợi ích hợp pháp của công dân, tạo điều kiện cho công dân sử dụng quyền và làm tròn nghĩa vụ của mình…”
(Điều 18, Khoản 3)
“Thực hiện chính sách tôn giáo, bảo đảm quyền tự do tín ngưỡng, tôn giáo, theo hoặc không theo một tôn giáo nào của công dân…”
(Điều 13, Khoản 4)
Nghĩa là: Luật Tổ chức Chính phủ cũng không cho phép Chính phủ ban hành văn bản pháp quy để hạn chế quyền tự do của công dân được Hiến pháp đảm bảo. Tất nhiên là phải như vậy, vì Luật Tổ chức Chính phủ không thể có những quy định trái với Hiến pháp.
Nghị định của Chính phủ số 38/2005/NĐ-CP, do nguyên Thủ tướng Phan Văn Khải ký ngày 18/3/2005, quy định một số biện pháp đảm bảo trật tự công cộng, không đề cập đến khái niệm “biểu tình” được nêu trong Hiến pháp 1992. Ngược lại, khái niệm “tập trung đông người” được đề cập (21 lần) trong Nghị định số 38/2005/NĐ-CP không xuất hiện trong Hiến pháp 1992. Nghị định số 38/2005/NĐ-CP cũng không đưa ra định nghĩa hay giải thích về thuật ngữ “tập trung đông người”, không hề quy ước là “biểu tình” thuộc phạm trù “tập trung đông người”. Tất nhiên, không thể tùy ý dùng thuật ngữ “tập trung đông người” để chỉ hoạt động “biểu tình” (cũng giống như không thể dùng thuật ngữ “tập trung 500 người” để chỉ phiên họp Quốc hội), vì nếu như thế thì vừa thiếu tôn trọng công dân (hay thiếu tôn trọng Quốc hội), vừa thiếu tôn trọng Hiến pháp, bởi không được tùy tiện thay đổi thuật ngữ pháp lý cơ bản được sử dụng trong Hiến pháp và được dùng phổ biến trong thông lệ pháp lý trên toàn thế giới. Vì vậy, nếu hợp hiến, thì Nghị định số 38/2005/NĐ-CP cũng không chi phối quyền biểu tình của công dân được Hiến pháp đảm bảo.
Điều 50 của Hiến pháp 1992 khẳng định:
“Ở nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam, các quyền con người về chính trị, dân sự, kinh tế, văn hoá và xã hội được tôn trọng, thể hiện ở các quyền công dân và được quy định trong Hiến pháp và luật.”
Khi thực hiện các quyền con người (trong đó có quyền biểu tình), công dân chỉ phải tuân theo các quy định của Hiến pháp và pháp luật hiện hành. Khi chưa có luật tương ứng thì công dân không phải chấp hành văn bản pháp quy nào khác ngoài Hiến pháp, bởi công dân chỉ phải “sống và làm việc theo Hiến pháp và pháp luật” (Điều 31, Hiến pháp 1992). Quyền biểu tình của công dân không phải chịu chi phối bởi các quy định nào đó, cho dù chúng có thể được đưa vào luật trong tương lai, lại càng không thể bị cản trở bởi các quy định tùy tiện của các cấp chính quyền, của bộ máy công an, của tổ dân phố, hay của một cấp trên chung chung nào đó. Cho dù là ai, to nhỏ ra sao, nhân danh tổ chức nào, thì họ cũng đều là công dân Việt Nam và cũng không nằm ngoài phạm vi chi phối của nguyên tắc:
“Mọi công dân đều bình đẳng trước pháp luật.”
(Điều 52, Hiến pháp 1992)
Không phải bất cứ một quy định phi lý nào được đưa vào luật cũng là thiêng liêng, bất di – bất dịch. Nếu có Luật biểu tình thì nó không thể chứa đựng những quy định trái với Hiến pháp. Nhân dân có quyền kiến nghị và Quốc hội có trách nhiệm hủy bỏ bất cứ quy định pháp luật nào trái với Hiến pháp, vì
“Hiến pháp nước Cộng hoà xã hội chủ nghĩa Việt Nam là luật cơ bản của Nhà nước, có hiệu lực pháp lý cao nhất.
Mọi văn bản pháp luật khác phải phù hợp với Hiến pháp.”
(Điều 146, Hiến pháp 1992)
Biểu tình – Quyền hiến định có hiệu lực cùng Hiến pháp hiện hành

Dù có muốn, dù có cố, thì cũng không bao giờ quy định được hết mọi chuyện trên đời. Hơn nữa, càng có nhiều quy định thì càng có nhiều điều bất hợp lý và càng nảy sinh nhiều mâu thuẫn giữa các quy định. Chính vì vậy, người dân có quyền làm bất cứ điều gì mà pháp luật không cấm và không vi phạm những chuẩn mực đạo đức thông thường đã được xã hội thừa nhận.
Nhà nước có thể thông qua việc ban hành luật để hạn chế những mặt tiêu cực, nhưng sẽ không bao giờ khống chế được hoàn toàn.
Không thể tiếp tục luận tội theo kiểu “lợi dụng sơ hở của pháp luật…” Lập luận ấy không chỉ sai với thông lệ quốc tế, mà còn hài hước ở chỗ: Sao không trách phạt những người ăn lương của dân rồi làm ra luật… sơ hở, mà lại chỉ kết tội người dân áp dụng đúng luật sơ hở?
Căn cứ vào Hiến pháp và các văn bản pháp lý liên quan, với tư duy lô-gíc, chỉ có thể rút ra kết luận rằng: Quyền biểu tình của công dân được Hiến pháp hiện hành đảm bảo và có hiệu lực cùng lúc với Hiến pháp. Cho đến nay, chưa có luật hay văn bản pháp lý hợp hiến nào hạn chế quyền biểu tình của công dân. Vì vậy, công dân hoàn toàn có quyền tự do biểu tình, theo đúng tinh thần của Hiến pháp, không phải đợi đến lúc có Luật biểu tình hay một văn bản tương tự.
Biểu tình là biện pháp hữu hiệu để nhân dân bảo vệ quyền lợi chính đáng của mình và giải tỏa ức chế. Biểu tình cũng là một hình thức hợp lý để công dân bày tỏ chính kiến, góp phần xây dựng Nhà nước và thúc đẩy sự tiến bộ của xã hội.
Trách nhiệm của các cơ quan Nhà nước là phải tôn trọng và bảo vệ công dân thực hiện quyền biểu tình, phải triệt để tuân theo Điều 12 của Hiến pháp 1992:
“Nhà nước quản lý xã hội bằng pháp luật, không ngừng tăng cường pháp chế xã hội chủ nghĩa.
Các cơ quan Nhà nước, tổ chức kinh tế, tổ chức xã hội, đơn vị vũ trang nhân dân và mọi công dân phải nghiêm chỉnh chấp hành Hiến pháp, pháp luật, đấu tranh phòng ngừa và chống các tội phạm, các vi phạm Hiến pháp và pháp luật.
Mọi hành động xâm phạm lợi ích của Nhà nước, quyền và lợi ích hợp pháp của tập thể và của công dân đều bị xử lý theo pháp luật.”
Cách ứng xử với quyền biểu tình của công dân phản ánh mức độ tôn trọng nhân dân, tôn trọng Hiến pháp và trình độ hiểu biết pháp luật. Nó cũng thể hiện bản lĩnh lãnh đạo, mức tự tin vào sự trong sạch và chính nghĩa của bản thân. Một chính quyền vì dân, chỉ làm chuyện đúng, chắc chắn sẽ được đa số nhân dân tin yêu và bảo vệ, không việc gì phải sợ biểu tình. Nếu đi ngược lại lợi ích của nhân dân và dân tộc, làm những chuyện sai trái, thì không bạo lực nào có thể che chở vĩnh viễn.
Nếu thực sự cầu thị và muốn làm tròn bổn phận, lãnh đạo phải biết tận dụng hoạt động biểu tình như một chiếc cầu nối với nhân dân, làm nguồn cung cấp thông tin thực tế từ cơ sở, vốn dĩ hay bị bưng bít bởi bộ máy quản lý cấp dưới. Biểu tình là một phương tiện đắc lực để khắc phục tệ quan liêu – căn bệnh cố hữu của bộ máy chính quyền.
Chẳng có lý do chính đáng nào có thể biện hộ cho việc xâm phạm quyền biểu tình của công dân. Không thể cấm dân lên tiếng nhằm che dấu sự yếu kém. Không thể mượn cớ ổn định mà cản trở sự phát triển. Không được nhân danh bảo vệ chế độ để bảo vệ tham nhũng.
Xương máu của hàng triệu người Việt đã đổ xuống vì độc lập và tự do. Độc lập dân tộc chỉ có ý nghĩa khi gắn liền với tự do của nhân dân. Nếu dân không có tự do thì chính quyền mang quốc tịch nào cũng vậy. Do đó, muốn bảo vệ độc lập dân tộc, bảo vệ chế độ, thì phải tôn trọng các quyền tự do của nhân dân, trong đó có quyền biểu tình. Không thể khác!
Phụ lục
(Dành riêng cho những người kiên định…)
Nếu quý vị nào vẫn cảm thấy chưa đủ thuyết phục và vẫn kiên định lập trường cho rằng công dân phải đợi đến khi có Luật biểu tình mới được biểu tình, thì xin dành riêng đoạn tiếp theo để quý vị suy ngẫm.
Hiến pháp 1992 có năm lần nhắc đến từ “Đảng”, trong đó có ba lần ở “Lời nói đầu”, hai lần đầu đề cập đến lịch sử và công lao của Đảng CSVN, lần thứ ba trong câu:
“Hiến pháp này… thể chế hoá mối quan hệ giữa Đảng lãnh đạo, nhân dân làm chủ, Nhà nước quản lý.”
Hai lần còn lại là ở Điều 4, nguyên văn như sau:
“Đảng cộng sản Việt Nam, đội tiên phong của giai cấp công nhân Việt Nam, đại biểu trung thành quyền lợi của giai cấp công nhân, nhân dân lao động và của cả dân tộc, theo chủ nghĩa Mác – Lê Nin và tư tưởng Hồ Chí Minh, là lực lượng lãnh đạo Nhà nước và xã hội.
Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật.”
Như vậy, mặc dù Hiến pháp 1992 khẳng định “Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật”, nhưng trong toàn bộ văn bản Hiến pháp không có quy định cụ thể nào về khuôn khổ mà Đảng CSVN được phép hoạt động, và cho đến nay vẫn chưa có “Luật về Đảng” (hay tương tự) để quy định về quyền hạn, trách nhiệm, phạm vi và hình thức hoạt động của Đảng, cũng như hình thức xử lý khi tổ chức Đảng vi phạm Hiến pháp và pháp luật. Rõ ràng, xét về lô-gíc, tính hợp pháp của việc “Công dân… biểu tình theo quy định của pháp luật” khi chưa có Luật biểu tình không hề yếu hơn so với tính hợp pháp của việc “Mọi tổ chức của Đảng hoạt động trong khuôn khổ Hiến pháp và pháp luật” khi chưa có “Luật về Đảng”. Vậy thì quý vị có cho là Đảng CSVN phải… đợi đến khi có “Luật về Đảng” hay không?
Nếu ý vừa rồi vẫn chưa đủ, thì xin quý vị lưu ý thêm: Hiến pháp 1992 không đề cập đến chuyện ăn, chuyện ngủ… Việt Nam cũng không có luật về ăn, ngủ… Vậy mà hàng ngày 90 triệu người Việt vẫn ăn, vẫn ngủ…, dù biết là phải “sống… theo Hiến pháp và pháp luật” (Điều 31, Hiến pháp 1992). Phải chăng, quý vị cũng coi đấy là hành vi cố tình vi phạm kỷ cương, coi thường phép nước? Vấn đề này có vẻ còn nghiêm trọng hơn cả chuyện biểu tình, vì quyền biểu tình của công dân còn được Hiến pháp ghi nhận đích danh. Vậy thì quý vị có định đòi hỏi mọi người cũng phải nhịn ăn, nhịn ngủ… cho đến khi có luật và được luật cho phép, giống như phải nhịn biểu tình hay không?
No comments:
Post a Comment